Trong giai đoạn 2016-2020, ngành công nghiệp điện tử Việt Nam có bước phát triển mạnh mẽ, bình quân trong giai đoạn này, chỉ số sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 14,94%, trong đó mức tăng cao nhất ghi nhận được năm 2017 là 32,7. %.
Chỉ số IIP 8 tháng đầu năm 2021 so với cùng thời điểm năm 2020 của ngành Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính, sản phẩm quang học và Sản xuất thiết bị điện tử tăng nhẹ so với cùng kỳ năm 2020 (tương ứng là 7,8% và 3,3% ).
Trên thực tế, ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam hiện chỉ lắp ráp các bộ phận và gia công sản xuất đơn giản; Về sản xuất linh kiện, thiết bị chuyên dụng, Việt Nam vẫn chưa đạt được thành tựu nào lớn. Sự phát triển đáng kể của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam trong những năm gần đây chủ yếu thể hiện ở việc thu hút các khoản đầu tư lớn từ các tập đoàn đa quốc gia, đặc biệt là các tập đoàn đến từ Hàn Quốc và Nhật Bản. Các dự án FDI trong lĩnh vực sản xuất điện tử chiếm 95% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành này.
Trong 8 tháng năm 2021, có 33 dự án điện và điện tử đã được cấp phép. Tổng vốn đầu tư đăng ký đạt hơn 1,7 tỷ USD. Trong đó, những con số này cho thấy, thị trường miền Bắc vẫn thu hút được nhiều dự án có quy mô lớn hơn và hơn 70% dự án nằm ở miền Bắc cả về số lượng và giá trị vốn đăng ký.
Bắc Ninh là tỉnh có số lượng dự án lớn nhất trong số các dự án được cấp phép mới 8 tháng đầu năm 2021, nhưng quy mô dự án không quá lớn. Trong đó, hầu hết các dự án quy mô lớn đều đặt tại Quảng Ninh. Quảng Ninh cũng đứng thứ hai về số lượng dự án đăng ký. Ngoại trừ Quảng Ninh, các tỉnh còn lại trong top 5 dự án về số lượng và giá trị vốn đăng ký đều không đồng đều. Trong khi các dự án tập trung ở Bắc Ninh, Bình Dương, Hà Nam và Long An thì các dự án quy mô lớn tập trung ở Phú Thọ, Nghệ An, Bắc Giang và Thái Bình.
Theo ông Nguyễn Ngọc Ẩn, Giám đốc CÔNG TY TNHH TƯ VẤN XÂY DỰNG TÂN CC, ngành điện tử Việt Nam trong những năm gần đây đã đạt được sự tăng trưởng mạnh mẽ, hấp dẫn các nhà đầu tư điện tử hàng đầu như Samsung, Foxconn, LG, … với một số lý do:
Thứ nhất đến từ phía cầu: Vốn đăng ký và giải ngân của các nhà đầu tư FDI vào Việt Nam liên tục tăng trưởng và duy trì ở mức cao trong 10 năm qua. Nhiều nhà đầu tư lớn vẫn đang rót vốn vào Việt Nam để tận dụng các lợi thế: Chi phí đầu tư thấp, nguồn lao động dồi dào, cạnh tranh, nhiều ưu đãi về thuế và cơ hội tiếp cận nhiều thị trường lớn thông qua các FTA. Đặc biệt, nền sản xuất công nghiệp của Việt Nam đã tích lũy và hoàn thiện nhiều chuỗi cung ứng quan trọng như điện tử, dệt may,…
Bên cạnh đó, làn sóng chuyển dịch đầu tư khỏi Trung Quốc trong 3 năm qua vẫn đang tiếp diễn và áp lực đa dạng hóa chuỗi cung ứng càng gieo rắc rủi ro do đại dịch Covid-19 gây ra. Dẫn đến nhu cầu đầu tư và chuyển dịch chuỗi cung ứng đang diễn ra mạnh mẽ trên khắp thế giới, trong đó Việt Nam là một trong những điểm nóng hiện nay.
Sự bùng phát của COVID-19 trên toàn thế giới đã khiến sản lượng giảm, đặc biệt là ở các nước châu Á, bao gồm cả nguồn cung chip điện tử giảm mạnh. Không chỉ ở Việt Nam, Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc… cũng đang nỗ lực nâng công suất sản xuất hoặc xây dựng nhà máy mới để tiếp tục đáp ứng nhu cầu này. Gần đây, các doanh nghiệp lớn như Samsung, TSMC, Intel đã rót hàng trăm tỷ USD để mở các nhà máy sản xuất chip mới nhằm tăng sản lượng. Điều này sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ chuỗi cung ứng phía sau. Đó là câu chuyện, các doanh nghiệp đang chờ đợi những con chip được sản xuất và họ bắt đầu sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho những con chip của mình. Vì vậy điều này cũng mở ra thách thức và cơ hội mới, nếu Việt Nam đẩy nhanh được quá trình phục hồi sau dịch thì đây sẽ là lợi thế lớn của Việt Nam so với các nước trong khu vực.